Phật giáo Tứ Ân Hiếu Nghĩa (四恩孝義), tên cũ là Đạo Tứ Ân Hiếu Nghĩa, gọi tắt là đạo Hiếu Nghĩa[1], do Ngô Lợi (thường được tín đồ gọi là Đức Bổn Sư) sáng lập. Buổi đầu, đạo là một trong những phong trào Cần Vương, nhưng dùng hình thức tôn giáo để qui tập tín đồ và để che mắt thực dân Pháp. Sau khi vua Hàm Nghi bị đày, Ngô Lợi mất, phong trào tan rã chỉ còn lại những hoạt động tín ngưỡng.
Tổng quan về tâm lý học giáo dục
Tâm lý học giáo dục là một môn khoa học dựa trên một tập hợp các sự kiện lý thuyết và ứng dụng. Tâm lý học giáo dục là một nhánh của tâm lý học, nhằm cung cấp các sự kiện và hướng dẫn có tổ chức giúp giáo viên đạt được mục tiêu của mình, đánh giá kết quả, xác định mối quan hệ giữa học sinh với học sinh, học sinh với giáo viên trong lớp học và đưa ra các quy luật góp phần kiểm soát các tình huống khác nhau trong tương lai.
Tâm lý học giáo dục kiểm tra hành vi của người học trong lớp học, cũng như cung cấp cho giáo viên thông tin, nguyên tắc và kinh nghiệm lý thuyết và thực tiễn quan trọng để hiểu cách học tập và giáo dục, đồng thời phát triển các phương pháp khoa học và phương pháp luận cũng như các kỹ thuật dạy học và chiến lược học tập đổi mới.
Ý nghĩa của tâm lý học trong giảng dạy
Tâm lý học giúp người dạy và người học hiểu biết những phương tiện cần thiết sử dụng trong giáo dục. Bao gồm trí tuệ và nhân cách của giáo viên, học sinh và phụ huynh. Đây là phương tiện quan trọng để giáo dục trẻ và là công cụ hỗ trợ giảng dạy mà mọi nền giáo dục hướng tới.
Tâm lý học giáo dục giúp chúng ta am hiểu hơn về các phương pháp giảng dạy theo ba cách:
Giáo dục không chỉ thực hiện mục tiêu phát triển tri thức mà còn bồi dưỡng, hình thành và phát triển nhân cách. Những học thuyết trong tâm lý học nhân cách - một mảng của tâm lý học, chỉ ra rằng tâm lý học cung cấp hiểu biết về con đường hình thành nhân cách của trẻ. Các yếu tố có thể tác động lên quá trình đó bao gồm môi trường học tập, gia đình, nhà trường, xã hội…Từ đó gia đình cùng nhà trường cần chú ý hơn trong việc nắm bắt tâm lý và ý thức được vai trò của mình trong quá trình phát triển từ trí tuệ đến nhân cách của trẻ.
Tâm lý học giáo dục luôn là chủ đề thu hút nhiều sự quan tâm của toàn xã hội, nhưng thực tế tại nước ta lại chưa thể ứng dụng lĩnh vực này vào giáo dục một cách khoa học. Nhà trường, gia đình nên có những kế hoạch ứng dụng tâm lý học giáo dục vào công tác giảng dạy một cách chỉn chu hơn để quá trình dạy và học hiệu quả hơn.
Ở Nam bộ, trước cách mạng tháng tám (năm 1945) xuất hiện hai tôn giáo mới đó là đạo Cao đài và Phật giáo Hòa Hảo. Sự ra đời của Phật giáo Hòa Hảo có liên quan đến đặc trưng của Phật giáo. Bài viết này sẽ tìm hiểu về giáo lý, luật lệ, lễ nghi và cơ cấu tổ chức của Phật giáo Hòa Hảo.
Thứ nhất về Kinh sách: Giáo lý Phật giáo Hòa Hảo được thể hiện trong cuốn "Sấm giảng thi văn toàn bộ" của Đức Huỳnh Giáo chủ do Ban phổ thông Giáo lý Trung ương Giáo hội Phật giáo Hòa Hảo xuất bản năm 1966. Tâp sách này chia làm hai phần là "Sấm giảng giáo lý" và "Thi văn Giáo lý", trong đó:
* Sấm giảng giáo lý: được coi là phần nói về giáo lý Phật giáo Hòa Hảo mang tính sấm truyền của ông Huỳnh Phú Sổ - người sáng lập Phật giáo Hòa Hảo. Sấm giảng có 06 quyển gồm:
Quyến một với tựa đề "Sấm giảng khuyên người đời tu niệm" với 912 câu thơ được viết vào năm 1939 sau khi ông Huỳnh Phú Sổ làm lễ khai đạo. Nội dung quyển này, ông Huỳnh Phú Sổ tiên tri về thời vận, từ đó khuyên con người tu hành chân chính.
Quyển 2 với tựa đế "Kệ dân của người khùng" với 476 câu thơ viết tại làng Hòa Hảo vào cuối năm 1939. Nội dung quyển này, ông Huỳnh Phú Sổ lên án các hoạt động mê tín dị đoan đang lan tràn khắp đất nước, khuyên mọi người tu niệm để được cứu rỗi những ngày hạ nguyên tận diệt.
Quyển 3 với tựa đề "Sấm giảng" gồm 612 câu thơ viết tại làng Hòa Hảo vào cuối năm 1939. Nội dung quyển này, ông Huỳnh Phú Sổ phê phán thói sấu bị lôi cuốn theo đời sống vật chất tầm thường và khuyên con ngươi tu nhân tích đức để chuyển nghiệp.
Quyển 4 với tựa đề "Giấc mê tâm kệ" với 846 câu thơ viết năm 1939. Nội dung quyển này ông Huỳnh Phú Sổ thuyết giảng về giáo lý nhà Phật như: Tứ diệu đế, Ngũ uẩn, Bát chánh đạo... để người đời tu học.
Quyển 5 với tựa đề "Khuyến thiện" với 756 câu thơ được viêt năm 1941 tại Chợ Quán, Sài Gòn. Nội dung quyển này, ông Huỳnh Phú Sổ kể lại thân thế sự nghiệp của Phật Thích Ca để từ đó khuyên mọi người hãy noi gương Phật Thích Ca để tu hành theo pháp môn Tịnh độ.
Quyển 6 với tựa đề "Những điểu sơ lược cần biết của người tu hiền" được viết tại Sài Gòn năm 1945 bằng văn xuôi theo kiểu tản văn. Nội dung quyển này, ông Huỳnh Phú Sổ giải thích thêm về Tứ ân, Tam nghiệp, Thập thiện, Bát chánh đạo theo cách hiểu của đạo Phật và trình bày về các nghi thức cúng lễ, hành đạo.
* Thi Văn giáo lý: gồm có 253 bài văn vần và văn xuôi được xếp theo thứ tự thời gian từ năm 1939 đến năm 1947. Đối với tín đồ Phật giáo Hòa Hảo, nếu Sấm giảng giáo lý được coi là sự mạc khải của Tiên phật cho con người mà Đức Huỳnh giáo chủ linh ứng thì phần Thi văn giáo lý lại được coi là lời luận giải giáo lý của Đức Huỳnh giáo chủ.
Người sáng lập Phật giáo Hòa Hảo
Theo sách Sấm giảng thi văn toàn bộ thì Giáo lý Phật giáo Hòa Hảo gồm có hai phần đó là Học Phật và Tu nhân. Có ý kiến cho rằng nếu gọi là Giáo lý của Phật giáo Hòa Hảo thì chỉ có phần học Phật, còn phần tu Nhân chỉ là lối sống đạo. Tuy nhiên để hiểu được nét đặc trưng của giáo thuyết Phật giáo Hòa Hảo thì cần hiểu cả hai quan niệm về học Phật và tu Nhân.
* Phần học Phật: Phật giáo Hòa Hảo dựa vào giáo lý của Phật giáo nhưng khi giải thích lại tập trung vào ba pháp môn chính là Ác pháp, Chân pháp và Thiện Pháp, trong đó:
- Ác pháp: là các pháp làm trở ngại cho thiện pháp, làm cho con người ô nhiễm thân tâm, gây nên tội lỗi và vướng mãi trong vòng luân hồi sinh tử, thuộc về các pháp có các lý thuyết như:
+ Tam nghiệp là thân nghiệp, khẩu nghiệp, ý nghiệp tạo ra mười điều các là: sát sinh, trộm cắp, tà dâm, nói dối, nói dối hai mặt, nói điều ác, nói khoác lác, tham lam, giận giữ, si mê.
+ Thất tình: là bảy trạng thái tình cảm: buồn, yêu, ghét, vui, giận, sướng, muốn.
+ Lục dục là sáu điều ham muốn:danh, tài, sắc, hư, tật
+ Ngũ uẩn là năm thứ mê hoặc tham, sân, si, nhân, ngã mà trở nên đần độn, ngu si, tối tăm cản trở con người đến chỗ siêu thoát (nguyên gốc Ngũ uẩn là lý thuyết rất quan trọng của đạo Phật khi nói về 05 yếu tố là: sắc, thụ, tưởng, hành, thức tạo nên con người)
+ Tứ đổ tường là bốn bức tường làm cho con người sa ngã, tăm tối, tội lỗi là: cờ bạc, rượu chè, trai gái, danh vọng.
- Chân pháp: là các pháp phá tan những mê hoặc tối tăm để bừng sáng về trí tuệ tiến tới giác ngộ chân lý. Thuộc về Chân pháp có các thuyết như:
+ Tứ diệu đến gồm có 04 chân lý, trong đó: tập đế là khi mới vào tu; diệt đế là phải diệt trừ các ác pháp; khổ đế là nhẫn nại, nhịn khổ trong tu tập; đạo đế là đạt đến bậc giác ngộ - thành đạo ( nguyên gốc tứ diệu đế là bốn chân lý cao siêu của Phật khi nói về sự khổ của con người).
+ Thập nhị nhân duyên là 12 nhân duyên chằng chịt tạo ra chuỗi dây nhân quả của vòng luân hồi sinh tử mà con người vướng vào không thoát ra được.
+ Ngũ trược là năm thứ nhơ bẩn làm ô nhiễm nhân tâm nên mải say đắm trong cõi trần ai tục lụy
- Thiện pháp: là các pháp lành mà con người cần tu tập để gây thiện duyên, sửa trị thân tâm cho thanh sạch để chứng các quả vị Phật. Thuộc về Thiện pháp có các thuyết như:
+ Bát chính đạo: là 08 con đường tu hành chân chính, nếu ai theo sẽ diệt trừ được các ác pháp do thân, khẩu, ý tạo ra, cụ thể: chính kiến, chính nghiệp, chính mạng sẽ diệt trừ ác pháp về thân; chính ngữ diệt trừ ác pháp về khẩu và chính tư duy, chính tinh tiến, chính định, chính niệm sẽ diệt trừ ác pháp về ý.
+ Bát nhẫn là 08 điều nhẫn nhịn để vượt qua những thử thách trong xử thế và tu tập, trong đó: nhẫn năng xử thế là giữ cách xử xự với đời; nhẫn giới là giữ nghiêm giới luật; nhẫn hương lân là giữ hòa khí đối với cộng đồng, làng xóm; nhẫn phụ mẫu là giữ đức kính trọng, hiếu thảo với cha mẹ; nhẫn tâm là giữ lòng an định; nhẫn tính là giữ cho tính tình điềm đạm; nhẫn đức là giữ cho đức độ, hòa nhã và nhẫn thành là giữ thành tâm, thành tín.
* Phần tu nhân: giáo thuyết Phật giáo Hòa Hảo nhấn mạnh việc tu học theo Tứ ân tức là bốn điều ân nghĩa: Ân tổ tiên cha mẹ, Ân đất nước, Ân đồng bào, Ân tam bảo. Phật giáo Hòa Hảo giải thích cụ thể như sau:
- Ân tổ tiên cha mẹ: Mỗi con người sinh ra được nuôi dưỡng trưởng thành là nhờ công lao cha mẹ, nhưng công sinh thành ra cha mẹ là ông bà tổ tiên. Do đó phải sống có hiếu với cha, mẹ, ông, bà, tổ tiên. Muốn đền ơn cha mẹ phải nghe lời răn dạy, không làm điều xấu để phiền lòng cha mẹ; phải chăm sóc, phụng dưỡng cha mẹ nhất là lúc cha, mẹ ốm đau, già yếu. Muốn đền ơn ông bà tổ tiên, không được làm tổn hại đến truyền thống tốt đẹp của gia đình, dòng họ. Nếu tổ tiên có làm gì sai lầm gieo rắc đau thương cho con cháu thì phải quyết chí tu cầu để rửa nhục. Đây là ân nghĩa đầu tiên quan trọng nhất trong Tứ đạo.
- Ân đất nước: Mỗi người phải ân nghĩa với đất nước, quê hương vì đó là nơi nuôi ta sống và ông và tổ tiên ta thường sống, đó là nơi cho ta thuần phong mỹ tục, nâng tâm hồn ta lên và nâng bước ta đi. Mỗi con người phải yêu đất nước, yêu quê hương; tùy theo tài lực của mình mà làm cho quê hương giàu mạnh. Mỗi con người phải có trách nhiệm bảo vệ đất nước khi bị ngoại xâm và nhất là không phản bội Tổ quốc, làm tay sai cho ngoại bang.
- Ân đồng bào, nhân loại: mỗi con người phải sống ân nghĩa với đồng bào của mình, những người sống trong cùng đất nước, cùng màu da, tiếng nói, cùng đất nước, cùng tổ tiên con rồng cháu lạc. Phải sống ân nghĩa với những người xung quanh đã từng chia sẻ với nhau niềm vui, nỗi buồn, từng giúp đỡ nhờ cậy trong lúc khó khăn, hoạn nạn. Không những thế mỗi con người phải ân nghĩa với đồng loại, nhân sinh, không phân biệt màu da, chủng tộc, sang hèn, giàu nghèo.. theo tinh thần từ bi hỉ xả, vô ngã vị tha không gây thù hằn, không vì bản thân, dân tộc mình mà gây hại cho người khác, dân tộc khác.
- Ân tam bảo: Tam bảo là Phật, Pháp, Tăng. Ân Tam bảo là ghi nhớ công ơn Phật, Pháp, Tăng đã khai mở trí tuệ cứu vớt chúng sinh khỏi vòng trầm luân khổ ải. Bổn phận của mỗi con người phải noi theo tiền nhân tôn kính Tam bảo, tu rèn thân tâm để tiến trên con đường giải thoát.
Như vậy với những giáo thuyết như đã nói ở trên phần tu Nhân của Phật giáo Hòa Hảo là sự kế thừa và tiếp nối tư tưởng Tứ đại trọng ân của Phật thầy Tây An mà trực tiếp là Tứ ân hiếu nghĩa của ông Ngô Lợi. Phật giáo Hòa Hảo chủ trương vừa học Phật vừa tu nhân. Học Phật tạo nên đức, tu nhân tạo nên công. Có công đức mới nhanh chóng trở thành bậc tiền nhân được. Tuy nhiên, trong hai phần học Phật và tu Nhân, Phật giáo Hòa Hảo đặc biệt coi trọng phần tu Nhân. Phật giáo Hòa Hảo cho rằng phần tu Nhân phải dựa trên căn bản đạo đức, trước hết là đạo làm người vì "Thiên kinh vạn điển, hiếu nghĩa vi tiên"; thậm chí Phật giáo Hòa Hảo cho rằng không thực hiện được tu nhân thì không có học Phật được, hoặc có học Phật cũng chả có ý nghĩa gì.
Với giáo lý học Phật tu Nhân nêu trên, ông Huỳnh Phú Sổ cho rằng Phật giáo Hòa Hảo là một môn phái đặc sắc nhất trong các môn phái của Phật giáo. Nó sẽ khắc phục được các hạn chế của Phật giáo là có quá nhiều kinh sách, triết lý cao siêu, trừu tượng chỉ phù hợp trong việc giáo hóa cho một số rất ít người có điều kiện xuất gia tu hành. Còn Phật giáo Hòa Hảo mang tính chất phổ quát phù hợp với căn cơ của đại đa số chúng sinh, những cư sĩ tại gia. Pháp môn học Phật và tu Nhân của Phật giáo Hòa Hảo sẽ nhanh chóng đào tạo ra nhiều người hiền, có công đức trong chúng sinh.
Tín đồ Phật giáo Hòa Hảo là những cư sĩ tại gia nên việc thờ phượng và hành đạo rất đơn giản, chủ yếu được tiến hành tại gia đình. Phật giáo Hòa Hảo chỉ thờ Phật, thờ các vị anh hùng dân tộc. Phật giáo Hòa hảo không thờ thần thánh không rõ căn tích.
Phật giáo Hòa Hảo thờ Phật nhưng không bằng tượng cốt, tranh ảnh mà thờ tấm vải Trần Dà (là tấm vải màu nâu) thay cho tấm vải Trần Điều (là tấm vải màu đỏ) của Phật giáo Bửu Sơn Kỳ Hương với cùng một quan niệm Phật tức tâm, tâm tức Phật; ông Huỳnh Phú Sổ đã giải thích việc đổi thờ Trần Điều thành Trần Dà như sau: Từ trước, chúng ta thờ Trần Điều là di tích của Phật thầy Tây An để lại. Nhưng gần đây có nhiều kẻ sai phép, sai với tôn chỉ của đức Phật nên toàn thể trong đạo của chúng ta đổi lại màu dà. Lại nữa, từ trước đến giờ các sư vẫn dùng màu dà để biểu hiện cho sự thoát tục của mình và màu ấy là màu kết hợp của tất cả các màu sắc khác nên có thể tượng trưng cho sự hòa hiệp của nhân loại, không phân biệt chủng tộc và cá nhân.
Ở mỗi gia đình của Phật giáo Hòa Hảo có 03 bàn thờ: Bàn thờ Phật cao nhất chỉ treo tấm Trần Dà; bàn thờ tổ tiên đặt dưới bàn thờ Phật; bàn thờ thông thiên thờ ngoài trời, ở trước cửa nhà. Sau này tín đồ Phật giáo Hòa Hảo còn thờ ảnh của ông Huỳnh Phú Sổ, thường được đặt dưới tấm Trần Dà. Lễ phẩm cúng Phật hay cúng trời đất ở bàn thông thiên chỉ có hương, hoa và nước lạnh. Nước lạnh thể hiện sự trong sạch, hoa thể hiện sự tinh khiết, hương thơm xua đuổi tà khí. Ông Huỳnh Phú Sổ khuyên tín đồ không nên làm giỗ linh đình và tốn kém, bởi thánh thần và người chết không ăn được. Phật giáo Hòa Hảo tuyệt đối không dùng vàng mã khi cúng giỗ, vì cho rằng đó chỉ là những thứ giả tạo, không cần thiết.
Phật giáo Hòa Hảo không dùng kinh kệ của Phật giáo mà chỉ đọc sấm giảng của ông Huỳnh Phú Sổ và miện Lục tự Di Đà (sáu chữ Nam mô A Di Đà Phật) để tĩnh tâm. Do cách hành đạo niệm Lục tự Di Đà nên Phật giáo Hòa Hảo tự nhận mình là Pháp môn Tịnh độ Phật học tu nhân. Phật giáo Hòa Hảo không lạy người sống, trừ ông bà, cha, mẹ.
Hiện nay, Phật giáo Hòa hảo có các ngày lễ chính sau: Ngày 01 tháng giêng là tết Nguyên đán; ngày 15 tháng giêng là lễ Thượng nguyên; ngày 08/4 lễ Phật đản; ngày 18/5 lễ Khai đạo; ngày 15/7 lễ Trung nguyên; ngày 12/8 lễ Phật thầy Tây An; ngày 15/10 lễ Hạ nguyên; ngày 25/11 lễ sinh Giáo chủ Huỳnh Phú Sổ; ngày 08 tháng chạp lễ Phật thành đạo. Trong các ngày lễ trên thì lễ Khai đạo và lễ sinh nhật Đức Giáo chủ Huỳnh Phú Sổ là hai ngày lễ quan trọng. Ngoài ra, Phật giáo Hòa Hảo còn có các ngày lễ khác như lễ giỗ Đức Ông, Đức Bà (là bố, mẹ ông Huỳnh Phú Sổ), lễ vía Phật thầy Tây An và các đệ tử của ông...
Trong cuộc sống, tín đồ Phật giáo Hòa Hảo thực hiện tám điều răn của ông Huỳnh Phú Sổ, xem đó như giới luật của đạo, cụ thể:
Một là không được uống rượu, hút thuốc phiện, chơi bời đàng điếm, phải giữ trọng luân lý tam cương, ngũ thường.
Hai là không được lười biếng, phải cần kiệm, sốt sắng lo làm ăn và lo tu luân chân chất; không được gây gổ lẫn nhau và luôn tha thứ cho nhau khi nóng giận.
Ba là không được ăn sài, trưng diện thái quá và lợi dụng tiền tài mà quên nhân nghĩa đạo lý, đừng sống ích kỷ và xu nịnh kẻ giàu, phụ người nghèo khó.
Bốn là không được kêu trời, phật, thần thánh mà sai, hoặc nguyền rủa thần thánh không can dự đến ta.
Năm là không ăn thịt trâu bò, chó và sát hại sinh vật mà cúng thần thánh vì thấn thánh không bao giờ dùng hối lộ mà tha tội cho ta, vì nếu can tội sẽ chịu tội; còn những hạng ăn đồ cúng mà hết bệnh là tà thần, nếu cúng kiếng mãi thì chúng quên ăn sẽ nhiễu hại ta.
Sáu là không đốt giấy tiền bạc, vàng mã, quần áo mà tốn tiền vô lý vì cõi Diêm Vương không bao giờ ăn hối lộ của ta, mà cũng không sai được nữa, phải để tiền lãng phí ấy cứu trợ cho những người đói rách, tàn tật.
Bảy là đứng trước mọi việc về sự đời và đạo đức phải suy xét cho minh lý rồi sẽ phán đoán sự việc ấy.
Tám là phải thương yêu lẫn nhau như con một cha, dìu dắt nhau vào đường đạo đức. Nếu ai giữ được trọn lành trọn sáng về nơi cõi Tây Phương an dưỡng mà học đạo cho hoàn toàn đặng trở lại cứu vớt chúng sinh.
Ngoài ra, Phật giáo Hòa hảo còn răn dạy tín đồ tôn trọng những người khác tín ngưỡng, nhất là không cậy đông người mà ức hiếp hoặc nói xấu, bài xích; không nên gây oán thù mà phải làm lành với họ. Đối với nhân sinh nói chung thì phải giữ mối quan hệ hòa hợp, gây thiện cảm lẫn nhau; đồng thời phải biết thương xót, giúp đỡ mọi người nhất là những lúc khó khăn, hoạn nạn. Phật giáo Hòa Hảo khuyến khích ăn chay trường, nhưng nếu không có điều kiện thì hàng tháng ăn chay bốn lần vào các ngày 14, 15, 29, 30 hoặc ngày mùng một nếu là tháng thiếu. Những ngày ăn mặn phải kiêng ăn thịt các con vật như trâu, bò, chó vì chúng có ích và sống gắn bó với con người.
Hôn nhân và tang ma Phật giáo Hòa Hảo đơn giản và tiến bộ. Phật giáo Hòa Hảo khuyên cha mẹ không ép buộc tình duyên con cái nhưng phải có bổn phận hướng dẫn, khuyên bảo chúng; không nên để con quá tự do mà thiếu kinh nghiệm làm cho chúng hư hỏng. Phật giáo Hòa Hảo khuyên không thách cưới bằng lễ vật hay tiền, tổ chức lễ cưới đơn giản, tiết kiệm. Hôn lễ và tang lễ của người theo Phật giáo Hòa Hảo cũng giống như người Việt, không có dấu ấn tôn giáo riêng. Ông Huỳnh Phú Sổ còn khuyên mọi người không khóc lóc trong tang lễ vì làm vậy sẽ cản trở sự siêu thoát anh linh của người chết.
Ngoài những vấn đề nêu trên, Phật giáo Hòa Hảo còn đề cập đến nhiều vấn đề khác của đời sống xã hội với thái độ tích cực như cấm tuyệt đối việc chơi cờ bạc, hút thuốc phiện và mê tín dị đoan; Phật giáo Hòa Hảo còn khuyên mọi người siêng năng học hành để mở rộng kiến thức và giúp cho việc tu học. Phật giáo Hòa Hảo khuyên tín đồ rèn luyện thân thể, giữ vệ sinh vì thần thánh chỉ gần những kẻ trong sạch, nên nếu ai muốn được tiếp độ thì phải trong sạch cả tinh thần lẫn vật chất. Phật giáo Hòa Hảo không bắt mọi người để tóc dài, nhưng có lẽ một mặt noi theo Giáo chủ Huỳnh Phú Sổ, mặt khác để chứng tỏ mình không bị ảnh hưởng bởi văn minh phương Tây nên đa số nam tín đồ Phật giáo Hòa hảo thường để tóc dài và búi tó. Tín đồ Phật giáo Hòa Hảo thường mặc áo bà ba, áo dài màu đen hoặc màu dà (màu vàng).
Trước đây Phật giáo Hòa Hảo có quy định về nghi thức nhập đạo và ra đạo khá chặt chẽ, có phần gần giống như tổ chức chính trị. Người muốn nhập đạo cần có một số điều kiện như: Phải tự nguyện, có tuổi từ 18 trở lên, viết đơn xin gia nhập đạo, phải có 02 bổn đạo cũ giới thiệu và bảo lãnh, phải báo cho gia đình biết. Người vào đạo phải nguyện trước bàn thờ tổ tiên và tuyên thệ trước Tam bảo giữ gìn một đời một đạo cho đến ngày chung thân. Sau khi nhập đạo, mỗi người được nhận thẻ tín đồ, được tham gia sinh hoạt đạo và đóng nguyệt liễm.
Theo truyền thống, Phật giáo Hòa Hảo có 02 đối tượng tu hành đó là tu tại gia và tu xuất gia. Những người tu xuất gia hình thành hàng giáo phẩm trong đạo. Đối với người tu tại gia thì không có hàng giáo phẩm.
Thời kỳ đầu, Phật giáo Hòa Hảo do ông Huỳnh Phú Sổ - Giáo chủ cùng một số người thân tín lãnh đạo giáo hội. Đến giữa năm 1954, sau một quá trình chuẩn bị, ông Huỳnh phú Sổ đã lập ra Ban Trị sự ở các cấp. Tuy nhiên cùng lúc này tồn tại 02 dạng tổ chức bên cạnh Ban Trị sự các cấp đó là Đảng Dân xã và lực lượng vũ trang và trong giai đoạn này vì Phật giáo Hòa Hảo hướng đến nhiều đến hoạt động chính trị nên vai trò của Ban Trị sự lu mờ so với Đảng dân xã và tổ chức vũ trang.
Mãi đến năm 1960, vấn đề tổ chức của Phật giáo Hòa hảo mới được xem xét, củng cố lại, bắt đầu từ việc xây dựng lại Bản Điều lệ đề ngày 19/02/1963; sau đó đổi thành Bản Hiến chương đề ngày 06/12/1964. Tuy nhiên, gần 01 năm sau, tổ chức Giáo hội Phật giáo Hòa hảo mới được chính quyền Sài Gòn công nhận bằng sắc Luật 002/65 ngày 12/7/1965.
Hiến chương Giáo hội Phật giáo Hòa hảo xây dựng tổ chức theo cơ cấu 05 cấp là Trung ương, tỉnh, quận, xã, ấp, cụ thể: Cấp Trung ương đặt dưới sự lãnh đạo của Hội đồng Trị sự Trung ương và Hội đồng bảo pháp, trong đó: Hội đồng Trị sự Trung ương có 23 vị là trị sự viên (01 Hội trưởng, 02 Hội phó, 03 Cố vấn đoàn, 01 Chánh thư ký, 03 Phó thư ký, các Viện trưởng, Phó viện trưởng của các viện: Kiểm soát, Tài chính, Giáo lý, văn hóa- xã hội, tổ chức) và Hội đồng bảo pháp có 21 ủy viên. Ban Trị sự tỉnh có 17 thành viên. Ban Trị sự quận có có 11 thành viên. Ban Trị sự ấp có 09 thành viên. Nhiệm kỳ Hội đồng Trị sự Trung ương là 03 năm; Ban Trị sự tỉnh, huyện, xã là 02 năm; Ban Trị sự ấp là 01 năm.
Sau ngày giải phòng Miền Nam, do một số hoạt động chính trị nên chính quyền cách mạng đã ra thông báo giải tán Ban Trị sự các cấp của Phật giáo Hòa Hảo. Đến khi đất nước bước vào thời kỳ đổi mới, Đảng và Nhà nước đã tiếp tục xem xét, công nhận pháp nhân tổ chức giáo cho một số tôn giáo, trong đó có Phật giáo Hòa Hảo. Sau một thời gian chuẩn bị, dưới sự dẫn dắt của Ban vận động Phật giáo Hòa Hảo do ông Nguyễn Văn Tôn làm Trưởng ban, ngày 26/5/1999, Đại hội Đại biểu Phật giáo Hòa Hảo nhiệm kỳ I được tổ chức tại An Hòa tự (An Giang) và thông qua quy chế hoạt động và bầu Ban Đại diện Phật giáo Hòa Hảo cấp toàn đạo gồm có 11 thành viên do ông Nguyễn Văn Tôn làm Trưởng ban; Ban Đại diện Phật giáo Hòa Hảo là bước quá độ để tiến tới thành lập Giáo hội Phật giáo Hòa Hảo.
(xưa thuộc làng Hòa Hảo, nay thuộc thị trấn Phú Mỹ, huyện Phú Tân, tỉnh An Giang).
Sau 06 năm hoạt động (từ 1999-2004), ngày 08-09/6/2004, Đại hội nhiệm kỳ II của Phật giáo Hòa Hảo đã được tổ chức long trọng tại An Hòa tự với sự tham dự của 571 đại biểu tín đồ. Đại hội đã thông qua Hiến chương của Phật giáo Hòa Hảo và suy cử Ban Trị sự Trung ương Giáo hội Phật giáo Hòa Hảo. Sau đó ngày 28/6/2004 được sự ủy quyền của Thủ tướng Chính phủ, Trưởng ban ban Tôn giáo Chính phủ đã ra văn bản chấp thuận Bản Hiến chương 2004 và danh sách 21 vị trong Ban Trị sự Trung ương Giáo hội Phật giáo Hòa Hảo nhiệm kỳ 2004-2009 do ông Nguyễn Văn Tôn làm Trưởng ban và các ông Nguyễn Tấn Đạt, Bùi Văn Đương, Thái Văn Năng Nguyễn Huy Diễm làm Phó trưởng ban.
Bản Hiến chương năm 2004 xác định đường hướng hoạt động là "Vì đạo pháp, vì dân tộc thực hiện tôn chỉ học Phật, tu Nhân, tại gia cư sĩ; giáo huấn tín đồ về Tứ ân (ân tổ tiên, cha mẹ; ân đất nước; ân tam bảo; ân đồng bào và nhân loại), 08 điều răn cấm và giáo lý chơn truyền của đức Huỳnh giáo chủ, cứu giúp người nguy khó, tương trợ trong quan, hôn, tang, tế và thực hiện hữu ích cho xã hội, cho nhơn sanh".
Theo bản Hiến chương 2004, cơ cấu tổ chức Giáo hội Phật giáo Hòa Hảo được hình thành 02 cấp: Ban Trị sự Trung ương và Ban Trị sự xã (phường); ngoài ra ở cấp tỉnh có Ban Đại diện. Ban Trị sự Trung ương có 21 thành viên. Giúp việc cho Ban Trị sự Trung ương có các bộ phận chuyên môn là: Văn phòng, Ban tài chính, Ban Phổ truyền giáo lý, Ban tổ chức và nhân sự, Ban từ thiện xã hội và Ban kiểm soát. Nhiệm kỳ Ban Trị sự Trung ương là 05 năm. Trụ sở Trung ương Giáo hội Phật giáo Hòa Hảo đặt tại chùa An Hòa Tự, xã Phú Mỹ, huyện Phú Tân, tỉnh An Giang.
Ban Trị sự cấp xã có từ 05 đến 07 thành viên, gồm Trưởng ban, Phó trưởng ban, Thư ký và Trị sự viên. Tùy theo yêu cầu đạo sự, Phó ban trị sự sẽ kiêm phụ trách các mảng từ thiện xã hội, phổ truyền giáo lý, tài chính, kiểm soát; nhiệm kỳ của Ban Trị sự xã là 05 năm theo nhiệm kỳ Ban Trị sự Trung ương. Ban Trị sự Trung ương và Ban Trị sự cấp xã là hai cấp hành chính đạo chính thức của Giáo hội, có con dấu pháp lý riêng để xử lý việc đạo.
Qua tìm hiểu về giới luật, luật lệ, cơ cấu tổ chức của Phật giáo Hòa hảo cho chúng ta thấy, giới luật, luật lệ, lễ nghi của Phật giáo Hòa Hảo đã đề cập đến những vấn đề đạo đức cụ thể của cuộc sống thế tục và ít nhiều mang giá trị có tính nhân văn. Trên thực tế, những giá trị, chuẩn mực đạo đức quy định trong giáo luật, luật lệ của Phật giáo Hòa Hảo đã có ý nghĩa nhất định trong việc duy trì đạo đức xã hội. Bên cạnh đó với cơ cấu tổ chức gọn nhẹ, linh hoạt và cách thức hành đạo đơn giản đã giúp cho Phật giáo Hòa Hảo dễ thích nghi đặc biệt đối với quần chúng nhân dân ở các tỉnh Nam bộ.
Nằm trên gò cao bên triền núi Ba Thê, chùa Linh Sơn có kiến trúc nghệ thuật độc đáo trong quần thể di tích khảo cổ Óc Eo - Ba Thê (thị trấn Óc Eo, huyện Thoại Sơn). Từ lâu, nơi đây được xem là địa chỉ du lịch tâm linh nổi tiếng khắp vùng. Tham quan ngôi chùa trăm năm tuổi, chúng ta sẽ cảm nhận vẻ đẹp an yên, thanh tịnh ở đây.
Tuyên ngôn toàn thế giới về nhân quyền 1948 (UDHR) là một áng văn bất hủ và bất diệt về các quyền và tự do của con người. Tuyên ngôn là lời tuyên bố của cộng đồng nhân loại rằng: “Mọi người sinh ra tự do và bình đẳng về phẩm cách và quyền lợi, có lý trí và lương tri, và phải đối xử với nhau trong tình bác ái. Ai cũng được hưởng những quyền tự do ghi trong bản Tuyên Ngôn này không phân biệt đối xử vì bất cứ lý do nào, như chủng tộc, màu da, nam nữ, ngôn ngữ, tôn giáo, chính kiến hay quan niệm, nguồn gốc dân tộc hay xã hội, tài sản, dòng dõi hay bất cứ thân trạng nào khác. Không được phân biệt về quy chế chính trị, pháp lý hay quốc tế của quốc gia hay lãnh thổ mà người đó trực thuộc, dù là nước độc lập, bị giám hộ, mất chủ quyền hay bị hạn chế chủ quyền. Ai cũng có quyền được sống, tự do, và an toàn thân thể”(1).
Bìnhluậnvề UDHR,GS.TS L.P.N Perera chứng minh rằng từng điều của UDHR đều đã nằm trong lời Phật dạy. Ông cho rằng toàn bộ 30 điều của UDHR đã thực sự là nền tảng cho mọi quyền con người và hoàn toàn phù hơp với tư tưởng Phật giáo, thậm chí ông còn khẳng định “Không có gì mới đối với quan niệm Phật giáo”(2).
GS Triết học Christopher Gowans thuộc trường Đại học Fordham Hoa Kỳ đánh giá: “Người ta thừa nhận rất rộng rãi rằng nhân quyền không được công nhận và xác nhận một cách rộng rãi trong các văn bản phật giáo truyền thống… Tuy nhiên, nhân quyền vẫn được (mặc dù không phải tất cả) các phật tử dấn thân ngày nay tán thành và ủng hộ” (Gowans, 2015)(3).
Tuy nhiên, cần nhận thức rõ rằng các giá trị nhân quyền là “ngôn ngữ chung của nhân loại”, có tính phổ quát chung toàn cầu, cho mọi người, mọi thành viên nhân loại, cho mọi tín đồ của các tôn giáo mà không có sự phân biệt tôn giáo, dân tộc, chủng tộc, ngôn ngữ, thành phần xuất thân. Mặc dù, có sự tương đồng về cơ bản, nhưng giữa triết lý và đạo đức Phật giáo với nhân quyền là những phạm trù khác nhau có thể đưa ra để đối chiếu, so sánh.
Phật (chữ Hán: 佛), phiên âm là Buddha, trong dân gian Việt Nam có thể còn được gọi là “Bụt” (Chữ Nôm: 侼). Trong kho tàng cổ tích dân gian Việt Nam, có lẽ Bụt cũng có gốc từ Buddha này. Bụt là nhân vật hiền từ, đức độ, đại lượng, đại từ đại bi, xuất hiện trong những tình huống con người khổ đau, trắc trở, éo le để che chở, phù hộ độ trì, cứu khổ cứu nạn. Trong Phật giáo thì Buddha không phải là một thần thánh, siêu nhiên mà có ý nghĩa là “Bậc Giác Ngộ”, dùng để chỉ đến một vị chân tu đã đạt đến sự tinh khiết và hoàn thiện vô song trong đạo đức, trí tuệ. Đó là một sự giác ngộ cực kỳ cao, là trí tuệ vĩ đại (Nhất thiết trí) cùng với sự Từ bi hỷ xả vô hạn độ. Phật không chỉ hoàn thiện về trí tuệ và đức hạnh mà còn toàn diện về mặt hình thể với 32 tướng tốt và 80 vẻ đẹp vô cùng long lanh, thanh tịnh. Tuy nhiên, Phật toàn giác mà không toàn năng, Đức Phật là người chỉ ra con đường để đi đến giải thoát, vì thế Đức Phật khuyên mọi người tu thân tích đức. Đức Phật không thể ban, cho, thưởng, phạt bất cứ ai, mỗi người phải tự tu hành mới đạt được kết quả của riêng mình. Điểm này cũng có phần nào giống như quan điểm của Luật Nhân quyền quốc tế, quyền con người là tự nhiên vốn có của mỗi con người, không thể do ai xin cho, giao hoặc ban phát. Mỗi người đều là chủ thể sở hữu những quyền đương nhiên của mình và phải giữ, thực hiện các quyền đó.
“Buddha” thường để chỉ một vị Phật trong lịch sử tên là “Thích Ca Mâu Ni”. Lịch sử Phật giáo ghi chép lại rằng đây là một nhân vật có thật đã truyền bá tư tưởng của mình ở lục địa Ấn Độ vào thế kỷ V trước Công nguyên, và những giáo lý ấy đã được làm nền tảng để khai sinh ra Phật giáo. Theo lời giảng giải của nhiều nhà tu hành thì ngài Thích Ca Mâu Ni là vị Phật duy nhất trên Trái Đất ở trong thời kỳ này, trong tương lai trên Trái Đất sẽ xuất hiện một vị nữa đắc đạo thành Phật là Bồ Tát Di Lặc. Tuy vậy, dòng Phật giáo Bắc tông thì cho rằng nếu xét rộng ra toàn vũ trụ, xét cả quá khứ - tương lai thì còn có vô số vị Phật khác nữa, nhiều vị đã đắc đạo ở quá khứ, nhiều vị đang sống trong hiện tại và nhiều vị sẽ đắc đạo ở tương lai. Phật giáo Bắc tông không những cho rằng có nhiều Phật, mà còn chia ra: Phật Tổ (Phật Chủ), Phật Vương, Phật Mẫu (Phật Bà), Phật Tử và những tầng tu hành thấp hơn Phật như: Duyên giác (Phật độc giác), Thanh văn (là những người nghe Phật giảng dạy mà tu được quả vị A-la-hán). Theo một số thuyết giảng khác thì cho rằng lịch sử Phật giáo là vô thường, không xác định, không có thời điểm sinh ra và cũng không bao giờ mất đi, tồn tại mãi trong vũ trụ, theo vòng luân hồi và nhân quả. Như vậy, nếu theo triết lý Phật giáo về nhân quả và luân hồi thì mọi sự vật, hiện tượng và nhân sinh vận động theo vòng tròn luân hồi khép kín, suy ra rằng lịch sử Phật giáo cũng không thể xác định, vì thế cũng không thể so sánh sự ra đời trước hay sau của những triết lý và đạo đức Phật giáo với các giá trị nhân quyền trong lịch sử.
Trở lại vấn đề cần quan tâm ở đây là quan hệ giữa triết lý, đạo đức Phật giáo và nhân quyền. Tác giả L.P.N Perera cho rằng quan điểm của đạo Phật về nhân quyền xuất phát từ hai mệnh danh “triết học” và “đạo đức”. Ở nước ta hiện nay và nhiều nước châu Á đã công nhận Phật giáo là một tôn giáo, thậm chí có những nước xem Phật giáo là quốc giáo. Tuy nhiên trong quá trình nghiên cứu vẫn có ý kiến cho rằng không nên coi Phật giáo là một tôn giáo vì Phật không phải là một vị thánh mà là một đấng giác ngộ, vì hệ thống chủ thuyết không xem Phật là duy nhất và thần linh, vì hệ thống tổ chức và hệ thống tín đồ lỏng lẻo và cởi mở của nó. Nhưng dù thảo luận kiểu gì thì đạo Phật vẫn là một tôn giáo và đã được công nhận là tôn giáo, thậm chí nó là một tôn giáo lớn, có những triết lý và đạo đức của Phật giáo. Gareth Jones, Georina Pality cho rằng “Với nhiều người, đạo Phật là một hệ thống triết lý hơn là một tôn giáo, bởi trong đạo vai trò của Thượng đế thánh thần rất mờ nhạt…”, tuy nhiên bản thân các tác giả này cũng đã công nhận Phật giáo là một tôn giáo lớn và được xếp là lớn thứ tư trên thế giới xét theo số lượng tín đồ (sau Kito giáo, Hồi giáo và Ấn Độ giáo)(4). Ở Việt Nam thì Phật giáo là một tôn giáo lớn, có uy tín, là 01 trong 16 tôn giáo đã được công nhận.
Triết học về nhân quyền đặt vấn đề con người sinh ra ai cũng có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc. Luật nhân quyền quốc tế cho rằng quyền con người là của mỗi con người, nhà nước có trách nhiệm tôn trọng, ghi nhận, bảo vệ và bảo đảm các quyền và tự do, hạnh phúc của con người. Triết lý và đạo đức Phật giáo trả lời rằng con người muốn có hạnh phúc thì cần tu thân tích đức, mỗi người cần thường xuyên giác ngộ chính bản thân mình và khi đã có giác ngộ cao siêu thì đạt tới cõi Niết Bàn; rằng “ở hiền gặp lành”, nhân nào quả ấy. Triết lý Phật giáo không quy trách nhiệm bảo vệ và bảo đảm nhân quyền cho bất cứ chủ thể nào, kể cả nhà nước. Triết lý nhân quyền cho rằng quyền tự do và hạnh phúc của con người là đương nhiên có trong mỗi con người được hưởng, từ khi sinh ra và trong suốt cuộc đời.
Mệnh danh triết học và đạo đức của đạo Phật thì mênh mông, học mãi không hết. Quyền con người, nói tóm lại là tự do, hạnh phúc, là sung sướng của con người. Chuyện kể rằng có một nhà vua trẻ cử người tâm phúc đi tầm sư học đạo và có nhiệm vụ trả lời câu hỏi: Làm thế nào để con người trên thế gian này được hạnh phúc? Mấy chục năm sau người tâm phúc trở về đem theo một đoàn lạc đà đông đảo trở đầy sách thì nhà vua đã già và dần suy yếu. Người tâm phúc chọn ra một số sách cốt yếu rồi lại chọn tiếp nhiều lần chỉ còn một vài cuốn để tiếp tục dâng lên nhà vua. Nhận được sách, nhà vua phán rằng: Trẫm đã già yếu quá rồi, chân chậm, mắt kém, ngươi hãy nghiên cứu và chọn cho ta chỉ 4 từ thôi rất cô đọng trong triết lý ở các sách ngươi đã mang về để ta hiểu được toàn bộ sách ấy. Sau đó người tâm phúc đã chọn dâng lên nhà vua 04 chữ: Sinh, Bệnh, Lão, Tử. Ngay từ thời Phật Hoàng Lê Thánh Tông, tại chùa Vĩnh Nghiêm đã có 10 năm đào tạo với 03 chương trình tu luyện triết học và đạo đức được chia làm 03 giai đoạn: tiểu học 04 năm, trung học 03 năm và đại học 03 năm. Nhà tu hành phải tối thiểu sau 10 năm như trên mới được “ứng đạo tu tập”. Chùa Vĩnh Nghiêm được coi là nơi đào tạo nhà tu hành, xuất bản sách và tài liệu giáo trình nổi tiếng. Hiện nơi đây còn đang nghiêm cẩn cất giữ nhiều mộc bản quý về triết lý và đạo đức nhà Phật. Học viện Phật giáo Sóc Sơn ngày nay chuyên giảng dạy về triết học và đạo đức phật giáo đã là rộng mênh mông trong chương trình đào tạo. Như vậy, việc tóm tắt triết lý và đạo đức nhà Phật là công việc không dễ dàng, tưởng như không tưởng, nhưng vẫn cần phải làm và vẫn có thể làm được để xem xét, so sánh nó với các giá trị nhân quyền. Căn bản triết lý và đạo đức của Phật giáo có thể tóm gọn lại là tam bảo và ngũ giới; cốt lõi tư tưởng và đạo đức Phật giáo là từ bi hỷ xả; sự vận động của cuộc sống và vũ trụ theo triết lý của đạo Phật là nhân quả, luân hồi, quả báo, tu nhân tích đức…
Trước hết, hãy xem xét các giá trị nhân quyền trong triết lý và đạo đức của Phật giáo về “tam bảo” và “ngũ giới”.
Tam bảo là “ba ngôi báu”, là ba cơ sở chính của Phật giáo: đó là Phật bảo, Pháp bảo và Tăng bảo. Phật bảo là bậc giác ngộ, Pháp bảo là giáo pháp của bậc giác ngộ và Tăng bảo là những người bạn đồng môn, đồng học. Phật tử biểu lộ sự tin tưởng, hướng tới đạo Phật bằng cách quy y tam bảo. Trong các buổi giảng dạy về thiền, đặc biệt sau các chương trình tiếp tâm, các thiền sinh được hướng dẫn vào lối nhìn tam bảo. Quy y tam bảo là có lòng tin và xây dựng lòng tin vững chắc vào Phật; tự nguyện và cùng các tăng ni phật tử giác ngộ theo giáo pháp của bậc giác ngộ.
Ngũ giới là 05 giá trị đạo đức và tôn giáo trong Phật giáo, là 05 điều răn không được làm của hàng tu sĩ tại gia, là 05 giới, 05 điều khuyến khích phải gìn giữ của người Phật tử tại gia. Đức Phật đặt ra 05 giới vì Ngài mong muốn cho người Phật tử tại gia thọ hưởng được quả báo tốt đẹp. Người Phật tử không thể chỉ thọ tam quy, trọng tam bảo mà không trì ngũ giới, không làm theo 05 điều răn dạy. Người quy y là người đã bước một nấc thang đầu tiên từ người phàm tục đến bén duyên với Phật pháp, nếu không giữ giới có nghĩa là dừng lại tại đó, không tiến bước tới nữa. Năm giới này không những để tiến bước trên đường giải thoát, mà còn đem lại trật tự, an vui, hòa bình cho gia đình, xã hội. Ngũ giới bao gồm: tránh xa sát sinh; tránh xa sự trộm cắp; tránh xa sự tà dâm; tránh xa sự nói dối; tránh xa sự dễ dãi uống rượu, say xỉn. Ngũ giới là năm thành trì ngăn chặn con người đừng đi vào đường ác, là năm hàng rào cản con người khỏi rơi vào vực sâu tội lỗi, là dẫn dắt con người hướng thiện.
Đạo Phật không bắt buộc người Phật tử phải tuân theo triệt để tam bảo, ngũ giới, cũng không hăm dọa nếu không tuân theo thì phải bị chịu hình phạt. Theo tam bảo và ngũ giới hay không theo là tùy thuộc mỗi người tự liệu lấy. Xét về khía cạnh này thì đây cũng là một điểm rất sáng, rất tôn trọng nhân quyền của đạo Phật, tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng, tự do lựa chọn, theo hoặc không theo. Tuyên ngôn nhân quyền toàn thế giới xác định rằng: “Mọi người đều có quyền tự do tư tưởng, tín ngưỡng và tôn giáo, kể cả tự do thay đổi tín ngưỡng hoặc tôn giáo của mình, và tự do bày tỏ tín ngưỡng hay tôn giáo của mình bằng các hình thức…”(5).
Đạo Phật định giới không sát sinh bao gồm không giết hại từ con người đến muôn loài, không những không giết hại mà còn không làm tổn thương đau đớn con người và muôn loài chúng sinh. Người Phật tử cũng không bảo người khác, bày mưu kế cho người khác làm các việc hành hạ, giết hại chúng sinh các loài. Khi thấy người khác đánh đập, sát hại con người và súc vật thì sinh lòng thương xót và khuyên can ngăn cản. Triết lý và đạo đức Phật giáo ở khía cạnh này chính là nội dung quyền sống và quyền được sống trong môi trường trong lành của luật nhân quyền quốc tế, là phù hợp với việc khuyến khích xóa bỏ án tử hình của luật nhân quyền quốc tế, với luật bảo vệ môi trường, bảo vệ các loài động vật hoang dã, các loài sinh vật biển… chính vì thế có giá trị nhân đạo và nhân văn rất cao cả.
Định giới thứ hai là không trộm cắp, giới này liên quan đến yếu tố tài chính vật chất. Việc duy trì sự công bằng, bình đẳng, tôn trọng nhau, không lừa dối nhau là tư tưởng cốt lõi của định giới này, sự gian lận bất công phải được loại trừ. Tương đồng với triết lý về định giới này, luật nhân quyền quốc tế đòi hỏi mỗi người đều được hưởng các quyền con người, đồng thời phải tôn trọng quyền con người của người khác, trong đó có các quyền sở hữu, quyền chiếm hữu, sử dụng và định đoạt tài sản của mình, không bị người khác chiếm đoạt vô cớ. Định giới này còn bao hàm các quyền bình đẳng giữa con người và con người trong sinh hoạt cộng đồng và trong xã hội. Mỗi người, mỗi chủ thể các quan hệ xã hội không muốn ai trộm cướp của mình, thì cũng không nên và không thể trộm cướp của người, đó là lẽ công bằng trong luật nhân quyền đồng thời cũng là triết lý, đạo đức của đạo Phật.
Định giới thứ ba quy định không tà dâm là không ép buộc người khác phải thỏa mãn tình dục với mình, không hãm hiếp đàn bà, con gái, không được xui bảo, bày mưu cho người khác làm việc tà dâm, không dụ dỗ hay dùng thủ đoạn để cướp vợ người khác. Dưới giác độ nhân quyền thì định giới này có liên quan tới quyền bình đẳng về giới, để bảo vệ sự công bằng, bảo vệ quyền được hưởng hạnh phúc cho gia đình mình và gia đình người và cho mỗi người. Triết lý và đạo đức Phật giáo cho rằng không tà dâm còn tránh được oán thù và quả báo xấu do lừa dối tình hay phụ tình gây ra. Nếu mỗi người đều giữ giới không tà dâm thì gia đình được đầm ấm, xã hội có luân thường đạo lý, suy ra rằng nhân quyền cũng được bảo đảm.
Định giới thứ tư không được nói dối, nói không đúng sự thật, chuyện có nói không, chuyện không nói có, nói lời hai lưỡi làm cho những người khác ghét nhau thù nhau; không nói lời thêu dệt, thêm bớt, có ít xít ra nhiều, nói châm chọc, bóng bẩy ám chỉ làm cho người nghe buồn phiền và khởi tà niệm; không nói lời độc ác, thô tục, cục cằn như nguyền rủa, chửi mắng thậm tệ làm cho người nghe sợ hãi đau khổ… Định giới này liên quan trực tiếp tới các quyền tự do ngôn luận, tự do thông tin, tự do báo chí và các quy định về bảo đảm thực hiện các quyền này. Mỗi người đều có những quyền về thể chất và tinh thần, về vật chất, tài sản và nhân thân, các quyền tự do cá nhân cần được tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm, thậm chí đó là những quyền “thiêng liêng, không thể xâm phạm”. Kinh Đại Phương Tiện Phật Báo Ân cho rằng: Người ta sinh ra ở đời, họa từ trong miệng mà sinh ra, nên phải giữ gìn cửa miệng hơn cả lửa mạnh, vì lửa mạnh có đốt cháy cũng chỉ đốt cháy một đời này mà thôi, còn như nói ác sẽ đốt cháy vô số kiếp. Miệng lưỡi có thể là búa sắc tự bổ vào mình, là cái họa để tự diệt mình và diệt nhiều người. Phật tử cần giữ giới này vì đạo Phật là đạo của sự thật nên phải tôn trọng sự thật, cũng là để bảo tồn sự trung tín trong xã hội, mọi người tin cậy, đoàn kết giữ cho xã hội được ổn cố, suy ra rằng từ đó nhân quyền được bảo vệ và bảo đảm thực hiện.
Định giới thứ năm không uống rượu vì uống rượu say có thể gây phạm bốn giới cấm phía trên là sát sinh, trộm cướp, nói dối, tà dâm. Định giới này bao gồm không được ép người khác uống rượu đến say mê mẩn, không tỉnh táo. Định giới không uống rượu còn bao gồm cả việc dùng các thứ ma túy và chất kích thích vì nó cũng làm cho tinh thần người sử dụng mất sáng suốt minh mẫn, mê dại, tâm bình tiêu mất. Người không uống rượu còn tránh được sự hao tốn tiền bạc, thân ít bệnh tật, trí tuệ tăng trưởng, tuổi thọ cao, con cái khoẻ mạnh, gia đình yên vui…, suy ra rằng cũng là để bảo vệ và bảo đảm quyền con người. Nếu tam quy là nền tảng thì ngũ giới là năm bậc thang của người Phật tử tại gia bước dần lên thành quả. Trong bước đầu tu hành, người Phật tử có thể giữ đủ năm giới hoặc có thể giữ vài giới mà mình thấy thực hành được, rồi sau sẽ phát nguyện giữ thêm các giới khác ngày càng sâu sắc hơn. Một Phật tử không giữ được giới nào thì chưa phải là người Phật tử. Người giữ giới sẽ được an vui khỏe mạnh sống lâu, ít bệnh, không hoạn nạn, gia đình đầm ấm yên vui, kiếp sau sẽ được tốt lành...
Cốt lõi tư tưởng và đạo đức Phật giáo là Từ - Bi - Hỷ - Xả, được gọi là bốn tâm. Người Phật tử lấy tâm Từ, tâm Bi, tâm Hỷ, tâm Xả làm nền tảng cho sự phát triển thánh hạnh. Nhân quyền là tự nhiên, vốn có trong mỗi người, nhưng được nhận thức, được hành động qua lý trí và biểu hiện bằng pháp luật, tình cảm, đạo đức. Còn triết lý và đạo đức của Phật giáo hướng tới trái tim, tức là từ “tâm”. Có lẽ chịu ảnh hưởng của triết lý này nên tác giả Trần Hữu Thắng đã viết rằng: “…Trái tim yêu thương của con người lúc sinh ra chưa đầy đủ, vì thế cho nên hàng ngày hàng giờ ta phải bổ sung, phải bồi đắp, nuôi dưỡng để trái tim yêu thương của ta ngày càng hoàn thiện, ngày càng yêu thương, gắn bó với những trái tim khác, với những số phận khác nhiều hơn. Đây rõ ràng là một quá trình tích cực, có tu dưỡng, có phấn đấu, có gian khổ để hình thành được một trái tim nhân ái, một trái tim biết chỉ huy toàn bộ những suy nghĩ đúng và hành động đúng của mỗi người…”(6).
Tâm “Từ” là lòng lành giúp ích cho người, lòng thương yêu, là làm cho lòng êm dịu, là an lành vui vẻ, lòng chân thành muốn cho bằng hữu mình được an vui hạnh phúc. Tâm từ không phân biệt kẻ thân người sơ, không phải là sự yêu thương thiên về xác thịt, về tình dục, không dành riêng cho tình đồng chí, đồng chủng, đồng hương, đồng đạo, cũng không phải chỉ có giữa người với người mà bao trùm đối với tất cả chúng sinh. Tâm Từ bao la, rộng rãi, trải ra dù không quen biết, đến mức độ sẽ thấy mình đồng hóa với tất cả chúng sinh, mọi sự chia rẽ đều biến mất như đám sương mù tan trong nắng sớm. Ngược lại với tâm “Từ” là lòng “Sân hận”. Chỉ có tâm “Từ” mới dập tắt được lòng sân hận, thù oán, các mầm tư tưởng bất thiện. Tình thương sẽ chinh phục được lòng sân hận. Mặt khác, có lòng từ ái, từ thiện đối với người khác không có nghĩa là phải quên mình. Triết lý và đạo đức của đạo Phật cho rằng trong khi phục vụ, chia sẻ lợi ích cho người cũng đừng quên tự giải thoát cho chính mình, có giác ngộ và giải thoát cho mình thì giúp kẻ khác mới có kết quả. Triết lý và đạo đức Phật giáo về tâm “Từ” không trực tiếp là vấn đề nhân quyền nhưng có tính nhân văn nhân đạo sâu sắc, tình thương yêu gắn kết giữa con người sẽ là bảo đảm vững chắc cho sự tôn trọng, bảo vệ quyền. Tâm “Bi” là lòng thương xót cứu khổ rất bao la và bình đẳng, là sự rung động trước sự đau khổ, là muốn giúp người khác thoát khỏi cảnh khổ, là lòng vị tha trong khi phục vụ kẻ khác, giúp mà không bao giờ mong đền ơn, đáp nghĩa. Đối tượng của tâm “Bi” là những kẻ nghèo đói, túng thiếu, đau ốm, cô đơn dốt nát, hư hèn và cả những người có đời sống buông lung, phóng đãng, tội lỗi, thậm chí còn rộng mở bao trùm tất cả chúng sinh đau khổ. Bên trong mỗi người, dù xấu xa tội lỗi thế nào cũng ngầm có những tính tốt, đôi khi chỉ cần lời nói phải, sự tác động đúng lúc, cũng có thể làm đổi hẳn bản tính con người. Chữ “Bi “không phải là bi quan, bi lụy, bi ai, bi thảm; cũng không phải là giọt nước mắt xót thương bi lụy mà là sự mềm dịu, là sự cảm thông và rung động, là tình thương cảm, là sự cảm hóa con người và vạn vật chúng sinh. Tâm “Bi” là vị thuốc có thể tiêu trừ bệnh hung bạo. Đối lập tâm “Bi” là âu sầu, phiền não, ích kỷ, vụ lợi.
Tâm “Hỷ” là lòng vui, tự mình vui và vui với người khác, với mọi người, vui theo, cùng vui với người khác khi họ có hạnh phúc hay họ được thành công. Tâm “Hỷ” hướng tới tạo sự an vui, hạnh phúc trong đời sống cá nhân cũng như tập thể và vươn mình lên sống đời trong sạch, cao thượng. Để có được tâm “Hỷ” không dễ. Lòng “ganh tị” là kẻ thù trực tiếp của tâm “Hỷ”.
Nhiều người lấy làm bực tức khi thấy người khác thành công hay vui khi thấy người khác thất bại, ưu phiền khi thấy mình thiệt thòi, uất ức khi thấy bị xúc phạm, bất bình khi bị đè nén... Vượt lên tất cả để có được tâm “Hỷ “hoàn toàn không dễ chút nào, không những chỉ vui với mình mà còn để vui với người khác. Đức Phật chỉ rõ: “Người nào đem lòng khen chê, bất mãn và đố kỵ về những phẩm vật bố thí thì tâm người ấy chưa được an tịnh. Người bỏ được tính đố kỵ, ganh ghét và không so đo hơn thua thì tâm lúc nào cũng an tịnh”(7).
Tâm “Xả” làm nhân cho tâm Hỷ, nghĩa là muốn vui theo với người, muốn làm cho người vui, thì trước tiên mình phải không chấp nhặt, phải biết buông bỏ những điều ngang trái, những điều thiệt thòi, sỉ nhục mà người khác đã gây ra cho mình. Xả là biết buông bỏ, bỏ đi, quên đi những buồn phiền bức xúc, không cần thiết. Người tu hành đạo phật phải biết xả dần, xả bớt, xả tất cả. Con tằm sở dĩ thành bướm bay lượn đó đây, vì nó đã rời bỏ cái kén, dù đó là một cái kén bằng tơ vàng óng ánh, ấm áp, đẹp đẽ mịn màng vô cùng. Xả mà còn buồn rầu tiếc nuối cho cái mà mình đã bỏ đi thì xả như thế không có ích gì. Xả phải đi đôi với cùng tu luyện “Hỷ”, thực hiện tâm “Xả” với thái độ hân hoan, vui mừng như người tù khi được tháo gỡ xiềng xích, ra khỏi cửa trại giam chứ không phải là buồn rầu, tiếc nuối. Tâm “Xả” là thư thái nhẹ nhàng, tự do, không kỳ thị.
Bốn tâm này thực ra và trước hết là thái độ và tâm niệm của các nhà tu hành, là lối sống của bậc giác ngộ cao, nhưng được mở rất rộng, không hạn chế, cho tất cả phật tử, cho tất cả mọi người, cho các loài hữu tình ở khắp bốn phương, là những đặc tính giúp con người trở nên tốt đẹp, hoàn thiện. Phật và các vị Bồ tát có hoàn thiện Từ-Bi-Hỷ- Xả nhiều nhất nên được được xưng là “Đại từ, Đại bi, Đại hỷ, Đại xả”, Đạo Phật vì thế còn được gọi là đạo từ bi, đạo cứu khổ, ở đâu có đạo Phật thì ở đó có tình thương. Cốt lõi tư tưởng và đạo đức Phật giáo là Từ-Bi-Hỷ-Xả cũng chính là hướng tới sự giải thoát khỏi đau khổ, bất hạnh, đưa con người tới tự do và hạnh phúc, đề cao các giá trị quyền con người, tôn vinh con người. Cùng hướng tới các giá trị nhân quyền nhưng với Từ-Bi-Hỷ-Xả của Đạo phật tìm kiếm giải pháp bằng con đường đạo đức, kêu gọi tự giác và tự giải thoát; còn tư tưởng nhân quyền trong UDHR thì tìm kiếm sự bảo đảm nhân quyền bằng pháp luật và nhà nước, bằng chế độ pháp quyền (rule of law), nhà nước có trách nhiệm tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm nhân quyền.
Sự vận động của cuộc sống và vũ trụ theo triết lý của đạo Phật là nhân quả, luân hồi, tu nhân tích đức… Luân hồi và nhân quả là nguyên lý cơ bản của giáo lý Phật giáo. Nhân quả trong triết lý đạo Phật nhắc nhở mỗi con người phải có trách nhiệm trong từng ý nghĩ, lời nói và hành động thực hiện quyền của mình mà không vi phạm các quyền và tự do của người khác. Con người nếu sống vô ý thức, thiếu trách nhiệm, chỉ sống trong sự tham lam, ích kỷ thì sẽ dễ dàng gây họa cho người khác và nhận báo ứng về với bản thân mình. Đại đức Thích Đạt Ma Phổ Giác từng giảng giải rằng: Theo luật nhân quả, thành công hay thất bại đều có nguyên nhân sâu xa của nó. Nếu chúng ta muốn có được nhiều kết quả tốt đẹp thì phải biết gieo nhân thiện ích giúp người, cứu vật. Tuy nhiên khái niệm, hiện tượng về kiếp luân hồi và nhân quả trở thành nỗi trăn trở, thậm chí ám ảnh ngàn đời của các thế hệ con người. Có hay không việc “đời cha ăn mặn, đời con khát nước”, kiếp trước ăn ở bạc ác, kiếp sau phải chịu nghiệp báo. Liệu người chết ở kiếp trước rồi sau này đầu thai vào những kiếp sau không? Theo Thiền sư Thích Nhất Hạnh: Luân hồi có nghĩa là sự tiếp nối, không có cái gì từ có trở thành không, không tự nhiên mà mất đi cũng không tự nhiên mà có, tất cả đều được tiếp nối dưới một hình thức này hay một hình thức khác. Đám mây luân hồi ra thành cơn mưa và cơn mưa luân hồi ra thành nước trà. Khi tôi uống trà trong chánh niệm, tôi có thể cảm thấy tôi đang uống mây. Triết lý về nhân quả của Phật giáo có một khía cạnh nào đó tương đồng với cặp phạm trù nguyên nhân - kết quả trong phép biện chứng của Triết học, có chăng sự khác nhau ở cách vận hành. Đã đành đời là bể khổ nhưng để thoát khổ thì phải tích cực tu luyện chứ không thể thụ động ngồi chờ ban phát. Mỗi phật tử đều cần thu luyện theo Bát chính đạo(8).
Đối tượng của UDHR và của luật nhân quyền quốc tế là mỗi người và mọi người trên trái đất này, là nhân loại; còn nhãn quan triết lý của đạo Phật là vũ trụ bao la, là chúng sinh rộng lớn. Nhân quyền là quyền tự nhiên và bẩm sinh của con người, do tạo hóa sinh ra và gắn với từng cá nhân con người một cách bình đẳng và phổ quát. Tuy nhiên, triết lý đạo Phật không cho rằng quyền con người do “tạo hóa” sinh ra mà nằm trong vòng luân hồi và từ nhân quả. Quyền con người nói tóm lại là “tự do” nhưng có hàng triệu cách giải thích về “tự do”. Tư tưởng pháp quyền (rule of law) cho rằng con người có quyền tự do hoạt động, tự do thực hiện tất cả các hành vi mà pháp luật không cấm. Triết lý Phật giáo thì cho rằng muốn có hạnh phúc, tự do thì phải rèn luyện, phải tu nhân tích đức, cần quy y tam bảo ngũ giới. Tinh thần tự do trong Phật giáo khác với tinh thần tự do của thế gian; tự do của thế gian là ta đòi tự do trong xã hội, tự do với những người khác; còn tự do trong Phật giáo là tự do nơi chính mình, tự do của nội tâm… Thiền sư Thích Nhất Hạnh cho rằng: “Tự do có được nhờ tu tập và thói quen. Bạn phải rèn luyện mình cách bước đi như một người tự do, ngồi như một người tự do và ăn như một người tự do. Chúng ta phải rèn luyện bản thân về cách sống như thế nào”(9) để tới tự do thực sự. Triết lý về nhân quyền gắn liền với những nhu cầu, lợi ích khách quan, đương nhiên, những phẩm giá vốn có của con người. Nhưng theo Phật giáo, những phẩm giá chân thật này chính là tính giác ngộ ở trong mỗi con người mà có thể chính con người không hay biết. Triết lý Phật giáo cho cuộc đời là “dukkha”. Dukkha nghĩa là bứt dứt, khó chịu, thất vọng, bực dọc, căng thẳng, lo âu, phật lòng, đau đớn, tuyệt vọng, buồn khổ, khổ sở, bất an, không hài lòng, không hạnh phúc... Dukkha được dịch ra tiếng Việt là “khổ”. Trong Phật giáo không chỉ có 4 loại khổ mà chi tiết hơn thì có 08 loại khổ: sinh, lão, bệnh, tử, ái biệt ly, cầu bất đắc, oán tăng hội, ngũ thụ uẩn. Khổ không hẳn là trạng thái bi quan, yếm thế, tiêu cực mà đồng thời có ý nghĩa tích cực, khuyến cáo mỗi người cố gắng vươn lên, sống tốt, sống thiện. Đó là cách mà Phật giáo nhìn thẳng vào cuộc đời, không né tránh. Còn triết lý về nhân quyền cho rằng con người hiện thực ai cũng có quyền được sống, quyền được tự do và mưu cầu hạnh phúc. So với triết lý về nhân quyền thì Phật giáo là tôn giáo rất đề cao quyền bình đẳng, tất cả chúng sinh đều có thể thành Phật, con người, ai cũng như ai, đều được cấu thành từ 05 yếu tố(10), sống chết chỉ là sự hợp tan của 5 yếu tố. Khi ngũ uẩn tụ lại thì con người hình thành, khi ngũ uẩn tan ra thì con người trở về cát bụi. Có sinh thì có tử, không một ai có thể trốn tránh được luật sinh tử, mọi người bình đẳng như nhau. Triết lý Phật giáo này hoàn toàn phù hợp với Điều 1 của UDHR: “Tất cả con người được sinh ra tự do và bình đẳng về phẩm giá và quyền lợi”.
Như đã trích dẫn ở trên, Christopher Gowans đánh giá rằng nhân quyền đang được các nhà tu hành và phật tử “tán thành và ủng hộ”, L.P.N Perera chứng minh từng điều của UDHR đều đã nằm trong lời Phật dạy, toàn bộ 30 điều của UDHR đã thực sự là nền tảng cho mọi quyền con người và hoàn toàn phù hợp với tư tưởng Phật giáo. Trong Phật giáo có thể không có từ nhân quyền, nhưng các quyền tự nhiên của con người như quyền được sống, quyền tự do, quyền mưu cầu hạnh phúc, quyền bình đẳng… đều luôn hiện hữu. Phật giáo thừa nhận quyền được sống mà không một ai có thể hủy hoại nó, bởi lẽ được làm người là cực kỳ khó. Phật còn đi xa hơn, không chỉ thừa nhận quyền được sống, mà còn đặt ra vấn đề sống như thế nào để được hạnh phúc an lạc mãi mãi, hoặc chí ít sau này lại được làm người. Phật giáo thừa nhận quyền trí tuệ khi mỗi người hãy tự thắp đuốc lên mà đi, chính mình phải tự làm chủ lấy mình, phải chịu mọi trách nhiệm cho hành động, hành vi, suy nghĩ của chính mình. Không chỉ thừa nhận nhân quyền, Phật giáo còn đưa ra những giải pháp để con người trở lại với chính mình, không bị tha hóa đánh mất mình, không chạy theo những cái ảo ảnh, phù du, phù phiếm, tạm bợ bên ngoài. Khi giác ngộ, con người hoàn toàn tự do, tự tại; bình thản, an vui, hạnh phúc, viên mãn. Đó cũng chính là tính đặc thù của nhân quyền trong Phật giáo(11).
(1)Điều 1, 2 và 3 Tuyên ngôn toàn thế giới về nhân quyền.
(2)Xem Đạo phật và Nhân quyền, Dipen Barua, Việt dịch: Thích Vân Phong, Tạp chí Nghiên cứu Phật học, ngày 02/11/2023.
(3)Xem Đạo phật và Nhân quyền, tlđd.
(4)Tôn giáo - Khái lược những tư tưởng lớn, Religions, NXB Dân Trí, 2016, tr 218-219
(5)Tuyên ngôn toàn thế giới về nhân quyền, UDHR, Điều 18.
(6)Trần Hữu Thắng, Tạp chí Tinh hoa Việt, số 215, ngày 10/3/2024.
(8) Bát chính đạo gồm: 1. Chính kiến (thấy, biết chân chính); 2. Chính tư duy (suy nghĩa đúng đắn, chân chính); 3. Chính ngữ (nói năng chân chính: không nói dối, nói ly gián, ác độc); 4. Chính nghiệp (hành động chân chính: không sát sinh, trộm cắp, tà dâm, rượu chè.); 5. Chính mệnh: sinh sống bằng nghề chân chính; 6. Chính tinh tấn: cố gắng, siêng năng; 7. Chính niệm: nghĩ, nhớ chân chính; 8. Chính định: tập trung tư tưởng đúng đắn.
(9) 30 câu nói của Thiền sư Thích Nhất Hạnh, FB, 29 tháng Một, 2024.
(10) 5 yếu tố bao gồm: Sắc (vật chất bao gồm tứ đại: địa (đất) chỉ xương, thịt; thủy (nước) chỉ máu, nước, chất lỏng; hỏa (lửa) chỉ nhiệt, khí nóng; phong (gió), chỉ hô hấp, hơi thở); Thụ (những cái chỉ cảm tính, tình cảm, biết do cảm mà biết, tình); Tưởng (biểu tượng, tưởng tượng, tri giác, ký ức, trí); Hành (ý chí, những yếu tố khiến cho tâm hoạt động, ý); Thức (ý thức, cái biết phân biệt).
(11) GS.TS Nguyễn Hùng Hậu, Tạp chí Nghiên cứu Phật học, số tháng 1/2024.
Trường Đại học Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội
Hoàn thiện pháp luật nhằm nâng cao hiệu quả công tác quản lý hoạt động khoáng sản