Theo đó, từ ngày 1/9/2024 đến hết ngày 30/11/2024, mức thu lệ phí trước bạ bằng 50% mức thu quy định tại Nghị định số 10/2022/NĐ-CP ngày 15/01/2022 của Chính phủ quy định về lệ phí trước bạ; các Nghị quyết hiện hành của Hội đồng nhân dân hoặc Quyết định hiện hành của UBND tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương về mức thu lệ phí trước bạ tại địa phương và các văn bản sửa đổi, bổ sung, thay thế (nếu có).
Nghị định 109/2024/NĐ-CP có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/9/2024 đến hết ngày 30/11/2024.
Theo Bộ Tài chính, việc tiếp tục giảm 50% mức thu lệ phí trước bạ (LPTB) đối với ô tô sản xuất, lắp ráp trong nước có tác động tích cực đối với người tiêu dùng như một giải pháp hỗ trợ tài chính, khuyến khích tiêu dùng.
Cũng theo Bộ Tài chính, việc giảm 50% mức thu LPTB đối với ô tô sản xuất, lắp ráp trong nước có thể làm giảm thu NSNN về LPTB bình quân khoảng 867 tỷ đồng/tháng (tương đương mức giảm theo Nghị định số 41/2023/NĐ-CP).
Ngoài ra, việc giảm 50% mức thu LPTB đối với ô tô sản xuất, lắp ráp trong nước có thể tác động đến cân đối thu NSNN của các địa phương. Theo quy định của Luật NSNN, khoản thu LPTB thuộc ngân sách địa phương.
Việc giảm 50% mức thu LPTB đối với ô tô, sản xuất lắp ráp trong nước khả năng sẽ làm tăng số lượng xe ô tô tiêu thụ và đăng ký nên số thu từ LPTB, thuế TTĐB, thuế GTGT có thể tăng.
Tuy nhiên, số thu thực tế từ thuế TTĐB và thuế GTGT chỉ tập trung ở 8 địa phương nơi có các công ty sản xuất, lắp ráp ô tô trong nước, còn các địa phương khác đều giảm thu ngân sách địa phương từ chính sách này (địa phương đã có yêu cầu ngân sách trung ương cấp bù khoản hụt thu này để đảm bảo cân đối ngân sách địa phương, từ đó có những ảnh hưởng nhất định tới cân đối ngân sách của nhiều địa phương.
Hiệp hội ô tô Malaysia (MAA) cho biết, giá xe nhập khẩu nguyên chiếc (CBU) có thể sẽ được điều chỉnh tăng lên và áp dụng từ ngày 1/6/2020 tới đây, vì như lời chủ tịch của MAA - bà Datuk Aishah Ahmad tiết lộ, công thức tính giá của xe CBU đã được sửa đổi.
Theo cách lý giải, giá xe nhập khẩu dao động thường xuyên, phụ thuộc rất nhiều bởi tỷ giá hối đoái và thời điểm nhập khẩu. "Trước đây, một mẫu xe được MAA phê duyệt nhập về theo dạng CBU, giá sẽ giữ nguyên và ổn định cho đến khi xuất hiện mẫu mới. Chu kỳ nhập khẩu một mẫu xe có thể kéo dài cả năm", bà Datuk Aishah nói.
Tuy nhiên theo công thức mới, kể từ 1/6/2020, giá xe CBU sẽ dựa trên giá trị giao dịch của từng lô hàng, trong đó một chiếc xe nhập khẩu sẽ phải nộp thuế, dựa trên giá trị CIF mới nhất (giá vốn, bảo hiểm và vận chuyển) và tỷ giá hối đoái mới nhất. Phần mềm sẽ dựa trên tỷ giá hối đoái vào ngày mà lô hàng đến cảng và hải quan sẽ sử dụng tỷ giá đó để xác định giá CBU.
"Trước đây, giám đốc của các nhà phân phối sẽ điều chỉnh giá xe CBU mỗi 6 tháng hoặc 1 năm nhưng bây giờ, có thể mỗi tuần khi xe về giá sẽ khác nhau", bà Datuk Aishah nói thêm.
Khi được hỏi, liệu động thái mới có làm khó các nhà nhập khẩu ô tô không, bà Aishah nói rằng "không", bởi vì có khả năng giá xe nhập cũng sẽ đi xuống, nếu tỷ giá hối đoái trở nên thuận lợi.
Chắc chắn một điều là giá xe nhập có thể thay đổi từng tháng hoặc khi hết hàng, hay là các mẫu xe mới được đưa vào, các công ty nhập khẩu ô tô sẽ phải đặt hàng với số lượng lô hàng nhỏ hơn để thích ứng với những thay đổi này.
Căn cứ tính giá xe nhập khẩu vào Malaysia dựa trên Chi phí, Bảo hiểm và Vận chuyển (CIF), sau đó bị áp thuế nhập khẩu và thuế tiêu thụ đặc biệt.
Thuế tiêu thụ đặc biệt tại Malaysia từ 60% đến 105% (không phân biệt CKD hay CBU), được tính dựa trên chủng loại xe và công suất động cơ, trong khi thuế nhập khẩu từ 0% đến 30%, tùy thuộc vào nguồn gốc sản xuất xe.
Mặc dù ô tô từ các nước ASEAN không bị áp thuế nhập khẩu, thuế tiêu thụ đặc biệt vẫn sẽ được áp dụng, nhất là xe đến từ Thái Lan.
Động thái thay đổi cách tính thuế với xe nhập khẩu (từ 1/6) và không tăng giá xe lắp ráp cho đến hết năm nay, được cho là sự hậu thuẫn mạnh mẽ cho các nhà sản xuất lắp ráp ô tô của Malaysia, trong bối cảnh các nước này và Thái Lan đã đến ngưỡng bão hòa xe ô tô.
Xe lắp ráp – nhập khẩu: Đi rồi lại về
Ngày 20/7, Mitsubishi ra mắt Xpander AT lắp ráp trong nước với giá 630 triệu đồng, không đổi so với bản nhập khẩu. Hôm qua 30/07, Honda công bố CR-V 2020 hàng "nội", thêm trang bị an toàn và giá tăng 15-25 triệu đồng so với bản nhập Thái Lan trước đây.
Cuối 2019, Toyota Fortuner chuyển về lắp ráp tại Việt Nam để chủ động hơn về nguồn cung, sau hơn hai năm nhập khẩu Indonesia. Giá bán các mẫu xe Fortuner lắp ráp trong nước lúc bấy giờ tăng nhẹ so với xe nhập khẩu trước đó, từ 1,033 – 1,354 tỷ đồng...
Xpander lắp ráp có thiết kế, trang bị và giá bán giống hệt bản nhập khẩu
Với một thị trường ô tô mà chính sách liên tục thay đổi như ở Việt Nam, việc các hãng xe thức thời chuyển đổi hình thức phân phối là điều không khó hiểu hiểu.
Năm 2018, sau Hiệp định thương mại hàng hóa ASEAN (ATIGA), thuế nhập khẩu ô tô trong khu vực còn 0%, nhiều hãng xe chuyển sang nhập khẩu từ các nước trong khối để hưởng lợi.
Tuy nhiên cũng trong năm đó, Nghị định 116 về điều kiện sản xuất, lắp ráp, nhập khẩu xe, dịch vụ bảo hành, bảo dưỡng ô tô có hiệu lực. Quy định này thắt chặt hoạt động nhập khẩu ô tô vào Việt Nam, làm thay đổi thế trận cạnh tranh giữa ô tô lắp ráp trong nước và xe nhập khẩu.
Từ đó, nhiều mẫu xe nhập khẩu rơi vào tình trạng khan hàng, không chủ động được nguồn cung.
Khách hàng có thể phải chờ nửa năm để sở hữu một mẫu xe nhập khẩu
Gần đây nhất, chính sách giảm 50% lệ phí trước bạ cho xe sản xuất và lắp ráp trong nước được áp dụng đến hết năm 2020, mở rộng đường cho nhiều mẫu xe nhập khẩu chuyển sang lắp ráp tại Việt Nam.
Vì sao xe lắp ráp không rẻ hơn xe nhập khẩu?
Hiện nay, ô tô lắp ráp trong nước có giá bán cao hơn xe nhập khẩu một phần bởi chi phí sản xuất ô tô tại Việt Nam cao hơn khoảng 20% so với nước ngoài, theo số liệu của các chuyên gia trong ngành.
Trước đây, xe nhập khẩu từ ASEAN chịu thuế khoảng 30% thì xe lắp ráp trong nước rẻ hơn. Khi thuế nhập khẩu về 0%, ô tô nhập khẩu lại rẻ hơn lắp ráp.
Thị trường ô tô Việt Nam hiện nay còn nhỏ, lại có tới vài chục thương hiệu xe và mỗi đơn vị lại có hàng chục mẫu. Do đó, mỗi dòng ô tô bán ra có số lượng hạn chế, dẫn đến chi phí sản xuất bị đội lên.
Trong khi đó, quy mô ngành và thị trường xe hơi của Việt Nam bằng khoảng một nửa Malaysia, bằng 1/3 so với Indonesia và còn khoảng cách rất xa so với Thái Lan.
Honda CR-V 2020 được lắp ráp tại Việt Nam có giá cao hơn 15-25 triệu đồng so với phiên bản trước được nhập khẩu từ Thái Lan
Một sản phẩm để tiến tới hạ giá thành cần đạt hiệu quả kinh tế nhờ quy mô sản xuất lớn, đòi hỏi số lượng tiêu thụ cũng phải cao. Một dây chuyền sản xuất ô tô trị giá hàng chục triệu USD cần thời gian để khấu hao vào sản lượng.
Thuế nhập khẩu linh kiện ô tô vào Việt Nam hiện nay khoảng 7-9% cũng ảnh hưởng không nhỏ đến giá thành xe lắp ráp trong nước. Trong khi đó, tỷ lệ nội địa hóa xe con chỉ đạt 7-10%, thấp hơn nhiều mục tiêu đề ra và cách xa con số trung bình 55-60% của ASEAN.
Thực tế tại Việt Nam, quá trình làm xe chủ yếu là lắp ráp các linh kiện nhập khẩu có sẵn. Do đó, kể cả khi nhập linh kiện về với giá ngang với nước sản xuất, các chi phí vận chuyển, lưu kho,... cũng làm giá thành xe bị đội lên.
Một chuyên gia trong ngành nhận định chi phí nhập toàn bộ linh kiện để lắp một chiếc xe hoàn chỉnh có khi còn cao hơn so với nhập nguyên một chiếc xe. Tuy nhiên các hãng vẫn chọn hình thức này để chủ động về nguồn cung cấp sản phẩm thay vì lệ thuộc.
Các chính sách ưu đãi khiến nhiều hãng xe tính chuyện lắp ráp tại Việt Nam
Việc xe lắp ráp rẻ hơn xe nhập khẩu chỉ đúng ở phân khúc xe sang bởi hầu hết các mẫu này đều nhập khẩu từ ngoài ASEAN. Các ô tô từ châu Âu, Mỹ, Nhật... chịu thuế khoảng 70%, không được ưu đãi 0% như xe nhập khẩu ASEAN.
Một ví dụ là mẫu xe sang Mercedes-Benz GLC 300 4Matic đang được bán với hai phiên bản, trong đó xe nhập khẩu nguyên chiếc cao hơn 160 triệu đồng so với xe lắp ráp trong nước. Thực tế, mức chênh lệch này cũng chỉ khoảng vài % giá trị xe.
Kết quả trước mắt là nhiều mẫu xe có doanh số tốt đã được lắp ráp trong nước. Tuy nhiên, do sản lượng còn yếu, tỉ lệ nội địa hóa chưa cao, các chính sách hay thay đổi nên câu chuyện xe nhập khẩu - lắp ráp hứa hẹn còn thay đổi trong thời gian tới.